MA^.T MA~ SHARE FACEBOOK

MA^.T MA~ SHARE FACEBOOK
Share |

Sunday, October 13, 2013

mua ban hat chum ngay

mua ban hat chum ngay http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 mua bán hạt chùm ngây cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg

Tuesday, April 27, 2010

NGHI THỨC TỤNG KINH TRÊN INTERNET







UNIVERSITY OF DELHI






NGHI THỨC TỤNG KINH

NGHI THỨC TỤNG KINH TRÊN INTERNET.
1/ NGUYỆN HƯƠNG
2/ TÁN PHẬT
3/ LỄ PHẬT ( 3 LỄ )
4/ TỤNG ĐẠI BI THẦN CHÚ
5/ KHAI KINH KỆ
6/ TỤNG KINH DI ĐÀ OR KINH PHỔ MÔN
7/ TỤNG BÁT NHÃ TÂM KINH
8/ TỊNH ĐỘ VÃNG SANH THẦN CHÚ
9/ XƯỚNG BÀI " ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG " NIỆM PHẬT
10/ SÁM BÀI THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG
11/ PHỤC NGUYỆN
12/ TAM TỰ QUY Y ( LỄ PHẬT HẾT )
( MUỐN TỤNG PHẦN NÀO THÌ CLICK VÀO PHẦN ĐÓ RỒI TỤNG)

NGUYỆN HƯƠNG



[ DA^NG HU*O*NG TA'N PHA^.T ]

] NGUYỆN ĐEM LÒNG THÀNH KÍNH
Wishing to bring forth my utmost sincerity,
GỞI THEO ĐÁM MÂY HƯƠNG
Along with this cloud of incense
PHƯỞNG PHẤT KHẮP MƯỜI PHƯƠNG
To appear in the ten directions,
CÚNG DƯỜNG NGÔI TAM BẢO
As an offering to the Triple Jewels,
THỀ TRỌN ĐỜI GIỬ ĐẠO
Vowing to maintain my faith,
THEO TỰ TÁNH LÀM LÀNH
Following thy true nature to live morally,
CÙNG PHÁP GIỚI CHÚNG SANH
Including sentient beings of the Dharma realms,
CẦU PHẬT TỪ GIA HỘ
Praying the compassionate Buddha for protection,
TÂM BỒ ĐỀ KIÊN CỐ
Firmly maintaining the Bodhi Mind,
XA BỂ KHỔ NGUỒN MÊ
Abandoning the shoreline of suffering and ignorance,
CHÓNG QUAY VỀ BỜ GIÁC
to quickly attain the Ultimate Enlightenment.
NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT MA HA TÁT

BÀI XƯNG TÁN CÔNG ĐỨC PHẬT



ĐẤNG PHÁP VƯƠNG VÔ THƯỢNG
The Unsurpassed Dharma King.
BA CÕI CHẲNG AI BẰNG
Unequaled in the three world,
THẦY DẠY CỦA TRỜI NGƯỜI
The Master of Gods and Men,
CHA LÀNH CHUNG BỐN LOẠI
The kind Father of four kinds of living beings,
CON MỘT NIỆM QUY Y
If singleđmindedly taking refuge with three,
DIỆT SẠCH NGHIỆP BA ĐỜI
The Karma of three periods will be eliminated,
XƯNG DƯƠNG CÙNG TÁN THÁN
Praising and glorifying Thee,
ỨC KIẾP KHÔNG CÙNG TẬN
The Merits and Virtues obtained are unending.

ĐẢNH LỄ TAM BẢO




NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TẬN HƯ KHÔNG, BIẾN PHÁP GIỚI, QUÁ, HIỆN, VỊ LAI
With one mind I now prostrate: Namo to the end of space of all the infinite Dharma realms of the three lifespans of all the ten directions of Buddhas,
THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TÔN PHÁP, HIỀN THÁNH TĂNG, THƯỜNG TRỤ TAM BẢO.
Dharmas and virtuous Sangha of the Unchanging Triple Jewels.
( LẠY 1 LẠY )
NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TA BÀ GIÁO CHỦ ĐIỀU NGỰ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
With one mind I now prostrate: Namo the ruler of the Saha World, the 'Sakyamuni Buddha,
PHẬT, LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẠC TÔN PHẬT, ĐẠI TRÍ VĂN
future-born Maiteya Buddha, Great Wisdom Manjusri Maha-Bodhisattva,
THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT, ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT, HỘ PHÁP CHƯ TÔN BỒ TÁT, LINH
Great Conduct Samantabhadra Maha-Bodhisattva, Dharma Protectors Maha-Bodhisattvas,
SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TẠ'T.
( LẠY 1 LẠY)
Mount Gradhakuta Assemmbly of Buddha and Maha-Bodhisattva.
NHỨT TÂM ĐẢNH LỄ: NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI
With one mind I now prostrate: Namo Western Ultimate Bliss World, the greatly compassionate Amitabha Buddha,
ĐÀ PHẬT, ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG
Greatly compassionate Avalokite'svara Maha-Bodhisattva, Great Strength Mahasthamaprapta Maha-Bodhisattva, Great Vow Ksitigarbha King of Maha-Bodhisattva,
VƯƠNG BỒ TÁT, THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT.
and the Ocean Assembly of Peaceful Bodhisattvas.
( LẠY 1 LẠY)

ĐẠI BI THẦN CHÚ



NAMO THE GREAT COMPASSIONATE BUDDHAS AND BODHISATTVAS ASSEMBLY ( 3 times)
The Great compassionate Mantra ( Mahakaruna Dharani) Chú Đại Bi Tiếng Phạn (Sankrit)



CHU' ĐẠI BI TIẾNG SANSKRIT

1. Namah Ratnatrayaya.2. Namo Arya-3. VaLokitesvaraya.4. Bodhisattvaya
5. Mahasattvaya.6. Mahakaruniakaya.7. Om.8. Sarva Rabhaye.
9. Sudhanadasya.

10.Namo Skrtva i Mom Arya-11.Valokitesvara Ramdhava.12.Namo Narakindi.
13.Herimaha Vadhasame.14.Sarva Atha. Dusubhum. 15.Ajeyam.16.Sarva Sadha.
17.Namo Vaga.18.Mavadudhu. Tadyatha.19.Om. Avaloki.

20.Lokate.21.Karate.22.Ehre. 23.Mahabodhisattva.24.Sarva Sarva.25.Mala Mala
26.Mahe Mahredhayam.27.Kuru Kuru Karmam.28.Dhuru Dhuru Vajayate.
29.Maha Vajayate.

30.Dhara Dhara.31.Dhirini.32.Svaraya. 33.Cala cala.34.Mamavamara.35.Muktele.
36.Ehe Ehe.37.Cinda Cinda.38.Arsam Pracali.39.Vasa Vasam

40.Prasaya.41.Huru Huru Mara.42.Huru Huru Hri.43.Sara Sara.44.Siri Siri.
45.Suru Suru.46.Bodhiya Bodhiya.47.Bodhaya Bodhaya.48.Maitriya.
49.Narakindi.

50.Dharsinina.51.Payamana.52.Svaha.53.Siddhaya.54.Svaha.55.Maha Siddhaya.
56.Svaha.57.Siddhayoge 58.Svaraya.59.Svaha.

60.Narakindi.61.Svaha.62.Maranara.63.Svaha.64.Sirasam Amukhaya.65.Svaha.
66.Sarva Maha Asiddhaya.67.Svaha.68.Cakra Asiddhaya.69.Svaha.

70.Padmakastaya.71.Svaha.72.Narakindi Vagaraya.73.Svaha74.Mavari Samkraya.
75.Svaha.76.Namah Ratnatrayaya.77.Namo Arya-78.Valokites-79.Varaya
80.Svaha

81.Om. Siddhyantu.82.Mantra83.Padaya.84.Svaha.




KHAI KINH KE^.

Vo^ thu*o*.ng tha^. m tha^m vi die^.u pha'p. ; The Dharma incomparable profound and exquisite is rarely met with.
Ba' thie^n va.n kie^'p nan tao ngo^. ; Even in hundreds of thousands of millions eons;
Nga~ kim kie^'n va*n da*'c tho. tri` ; I am now able to see, listen, accept and hold it;
Nguye^.n gia?i Nhu* Lai cho*n tha^.t nghi~a. ; I vow to understand the true meaning of the Tathagatas' wonderful teachings.
NAMO 'SAKYAMUNI BUDDHA

PHẬT PHÁP CAO SÂU RẤT NHIỆM MẦU
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÓ TÌM CẦU
NAY CON NGHE ĐẶNG CHUYÊN TRÌ TỤNG
NGUYỆN HIỂU NHƯ LAI NGHĨA THẬT SÂU

TIỂU BỔN KINH DI ĐÀ

Image and video hosting by TinyPic

Tiểu Bổn Kinh A Di Đà

Hán dịch: nhà Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch:
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Saigon, Việt Nam

1. Kỳ Viên đại hội.

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.

2. Y báo, Chánh báo.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

3. Y báo trang nghiêm

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.

Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

4. Chánh báo vô lượng thù thắng.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.

5. Nhơn sanh vãng lai

Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

6. Sáu phương Phật đồng khuyên tin

Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

7. Thuyết kinh rất khó

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Đà.

---o0o---

Thích Nghĩa:

1. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Đà Phật.

2. Triều Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

3. Ông Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

4. A-Dật-Đa là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.

5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..

[6]. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

6.1 Khổ ở cõi Ta Bà

Tam Khổ:

1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..

2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.

3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.

Bát Khổ:

1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.

2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc.

3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.

4. Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.

5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong.

6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.

7. Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.

8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.

6.2 Vui ở Cực Lạc

Tam Lạc:

1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...

2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...

3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...

Bát lạc:

1. Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..

2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...

3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...

4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...

5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên...

6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..

7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..

8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..

Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.

7. Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.

8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.

9. Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

10. Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. — trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

11. Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là a Di Đà.

12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.

13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát ..phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.

14. Người tu Tịnh Độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?

Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].

Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

15. Ngũ Trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).


THE SMALLER

SUKHĀVATĪVYŪHA SŪTRA

or

The Sūtra on the

Buddha Amitāyus

Translated from the Chinese Version of Kumarajiva

by Nishu Utsuki

The Educational Department of the West Hongwanji

Kyoto, Japan: 1924

Public Domain.

This electronic version may be copied and distributed free and without permission provided that it is not altered in any way.


1. Thus have I heard: Once the Buddha was dwelling in the Anathapindada Garden of Jetavana in the country of Shravasti together with a large company of Bhikshus of twelve hundred and fifty members. They were all great Arhats, well known among people, (to wit): Shariputra the elder, Mahamaudgalyayana, Mahakashyapa, Mahakatyayana, Mahakaushthila, Revata, Shuddhipanthaka, Nanda, Ananda, Rahula, Gavampati, Pindola-Bharadvaja, Kalodayin, Mahakapphina, Vakkula, Aniruddha, etc., all great Shravakas [lit. disciples]; and with many Bodhisattva-Mahasattvas, (such as), Manjushri, Prince of the Lord of Truth, Bodhisattva Ajita, Bodhisattva Gandhahastin, Bodhisattva Nityodyukta, etc., all great Bodhisattvas; and also with a large company of innumerable devas, (such as) Shakrodevanam-Indra, etc.

2. Then the Buddha addressed Shariputra, the elder, and said, 'Beyond a hundred thousand kotis of Buddha-lands westwards from here, there is a world named Sukhavati. In that world there is a Buddha, Amita(-ayus) by name, now dwelling and preaching the law. Shariputra, why is that country named Sukhavati? The living beings in that country have no pains, but receive pleasures only. Therefore, it is called Sukhavati.

3. 'Again, Shariputra, in the land Sukhavati (there are) seven rows of balustrades, seven rows of fine nets, and seven rows of arrayed trees; they are all of four gems and surround and enclose (the land). For this reason the land is called Sukhavati.

4, 'Again, Shariputra, in the land Sukhavati there are lakes of the seven gems, in which is filled water with the eight meritorious qualities. The lake-bases are strewn with golden sand, and the stairs of the four sides are made of gold, silver, beryl, and crystal. On land there are stories and galleries adorned with gold, silver, beryl, crystal, white coral, red pearl and diamond [lit. agate]. The lotus-flowers in the lakes, large as chariot wheels, are blue-colored with blue splendor, yellow-colored with yellow splendor, red-colored with red splendor, white-colored with white splendor, and (they are all) the most exquisite and purely fragrant. Shariputra, the land Sukhavati is arrayed with such good qualities and adornments.

5. 'Again, Shariputra, in that Buddha-land there are heavenly musical instruments always played on; gold is spread on the ground; and six times every day and night it showers Mandarava blossoms. Usually in the serene morning lit. dawn] all of those who live in that land fill their plates with those wonderful blossoms, and (go to) make offering to a hundred thousand kotis of Buddhas of other regions; and at the time of the meal they come back to their own country, and take their meal and have a walk. Shariputra, the Sukhavati land is arrayed with such good qualities and adornments.

6. 'And again, Shariputra, in that country there are always various wonderful birds of different colors, -- swan, peacock, parrot, Chari, Kalavinka and the bird of double-heads [lit. double-lives]. Six times every day and night all those birds sing in melodious tune, and that tune proclaims the Five Virtues [lit. organs], the Five powers, the Seven Bodhi-paths, the Eight Noble Truths, and other laws of the kind. The living beings in that land, having heard that singing, all invoke the Buddha, invoke the Dharma, and invoke the Sangha. Shariputra, you should not think that these birds are in fact born as punishment for sin. What is the reason? (Because), in that Buddha-land there exist not the Three Evil Realms. Shariputra, in that Buddha-land there are not (to be heard) even the names of the Three Evil Realms. How could there be the realms themselves! All those birds are what Buddha Amitayus miraculously created with the desire to let them spread the voice of the Law. Shariputra, (when) in that Buddha-land a gentle breeze happens to blow, the precious trees in rows and the begemmed nets emit a delicate enrapturing tune, and it is just as if a hundred thousand musical instruments played at the same time. Everybody who hears that music naturally conceives the thought to invoke the Buddha, to invoke the Dharma, and to invoke the Sangha. Shariputra, that Buddha-land is arrayed with such good qualities and adornments.

7. 'Shariputra, what do you think in your mind, for what reason that Buddha is called Amita(-abha)? Shariputra, the light of that Buddha is boundless and shining without impediments all over the countries of the ten quarters. Therefore he is called Amita(-abha). Again, Shariputra, the life of that Buddha and of his people is endless and boundless in Asamkhya-kalpas, so he is named Amita(-ayus). Shariputra, since Buddha Amitayus attained Buddhahood, (it has passed) now ten Kalpas. Again, Shariputra, that Buddha has numerous Shravakas or disciples, who are all Arhats and whose number cannot be known by (ordinary) calculation. (The number of) Bodhisattvas (cannot be known) also. Shariputra, that Buddha-land is arrayed with such good qualities and adornments.

8. 'Again, Shariputra, the beings born in the land Sukhavati are all Avinivartaniya. Among them is a multitude of beings bound to one birth only; and their number, being extremely large, cannot be expressed by (ordinary) calculation. Only can it be mentioned in boundless Asamkhya-kalpas. Shariputra, the sentient beings who hear (this account) ought to put up their prayer that they may be born into that country; for they will be able to be in the same place together with those noble personages. Shariputra, by means of small good works [lit. roots] or virtues no one can be born in that country.

9. 'Shariputra, if there be a good man or a good woman, who, on hearing of Buddha Amitayus, keeps his name (in mind) with thoughts undisturbed for one day, two days, three days, four days, five days, six days, or seven days, that person, when about to die, (will see) Amitayus Buddha accompanied by his holy host appear before him; and immediately after his death, he with his mind undisturbed can be born into the Sukhavati land of Buddha Amitayus. Shariputra, as I witness this benefit, I say these words; Every being who listens to this preaching ought to offer up prayer with the desire to be born into that country.

10. 'Shariputra, as I now glorify the inconceivable excellences of Amitayus Buddha, there are also in the Eastern quarters Buddha Akshobhya, Buddha Merudhvaja, Buddha Mahameru, Buddha Meruprabhasa, Buddha Manjughosha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words; All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

11. 'Shariputra, in the Southern worlds there are Buddha Candrasuryapradipa, Buddha Yacahprabha, Buddha Maharciskandha, Buddha Merupradipa, Buddha Anantavirya, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

12. 'Shariputra, in the Western worlds there are Buddha Amitayus, Buddha Amitalakshana, Buddha Amitadhvaja, Buddha Mahaprabha, Buddha Mahanirbhasa, Buddha Ratnala kshana, Buddha Shuddharashmiprabha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

13. 'Shariputra, in the Northern worlds there are Buddha Arciskandha, Buddha Vaishvanaranirghosha, Buddha Dushpradharsha, Buddha Adityasambhava, Buddha Jaliniprabha, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

14. 'Shariputra, in the Nadir worlds there are Buddha Simha, Buddha Yacas, Buddha Yashaprabhava, Buddha Dharma, Buddha Dharmadhvaja, Buddha Dharmadhara, and Buddhas as many as the sands of the River Ganga, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

15. 'Shariputra, in the Zenith words there are Buddha Brahmaghosha, Buddha Nakshatraraja, Buddha Gandhottama, Buddha Gandhaprabhasa, Buddha Maharciskandha, Buddha Ratnakusumasampushpitagatra, Buddha Salendraraja, Buddha Ratnotpalashri, Buddha Sarvarthadarsha, Buddha Sumerukalpa, and Buddhas as many as the sands of the River Ganges^1, each of whom, in his own country stretching out his long broad tongue that covers three thousand greater worlds completely, proclaims these truthful words: All you sentient beings believe in this Sutra, which is approved and protected by all the Buddhas, and in which are glorified the inconceivable excellences (of Buddha Amitayus).

16. 'Shariputra, what do you think in your mind, why it is called the Sutra approved and protected by all the Buddhas? Shariputra, if there be a good man or a good woman who listens to those Buddhas' invocation of the name (of Buddha Amitayus) and the name of this Sutra, that good man or woman will be protected by all the Buddhas and never fail to attain Anuttara-samyaksambodhi. For this reason, Shariputra, all of you should believe in my words and in what all the Buddhas proclaim. Shariputra, if there are men who have already made, are now making, or shall make, prayer with the desire to be born in the land of Buddha Amitayus, they never fail to attain Anuttara-samyaksambodhi, and have been born, are now being born, or shall be born in that country. Therefore, Shariputra, a good man or good woman who has the faith ought to offer up prayers to be born in that land.

17. 'Shariputra, as I am now praising the inconceivable excellences of those Buddhas, so all those Buddhas are magnifying the inconceivable excellences of myself, saying these words: Shakyamuni, the Buddha, has successfully achieved a rare thing of extreme difficulty; he has attained Anuttara-samyaksambodhi in the Saha world in the evil period of five corruptions -- Corruption of Kalpa, Corruption of Belief, Corruption of Passions, Corruption of Living Beings, and Corruption of Life; and for the sake of all the sentient beings he is preaching the Law which is not easy to accept. Shariputra, you must see that in the midst of this evil world of five corruptions I have achieved this difficult thing of attaining Anuttara-samyaksambodhi, and for the benefit of all the beings I am preaching the Law which is difficult to be accepted. This is how it is esteemed as (a thing of) extreme difficulty.'

The Buddha having preached this Sutra, Shariputra and Bhikshus, and Devas, men, Asuras, etc., of all the worlds, who have listened to the Buddha's preaching, believed and accepted with joy, made worship, and went away.

Buddhabhashita-Amitayuh-Sutra

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH [
BA`I CA VO.NG CO^? TIENG ANH
http://www.mediafire.com/?mtwnmyf3ugg

MUỐN COI CHỮ TO RA, THÌ BẤM VÀO TẤM HÌNH CÓ CHỮ PHẠN THÌ CHỮ SẼ TO RA







BA'T NHA~ TA^M KINH TIENG SANSKRIT

http://www.mediafire.com/?ddtqi2mxozn

Bản tiếng Phạn
[sửa] Chữ Devanāgarī


prajñāpāramita-hṛdayam sūtra

oṃ namo bhagavatyai ārya prajñāpāramitāyai!

ārya-avalokiteśvaro bodhisattvo gambhīrāṃ

prajñāpāramitā caryāṃ caramāṇo vyavalokayati sma:

panca-skandhās tāṃś ca svābhava śūnyān paśyati sma.

iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā śūnyataiva rūpaṃ,

rūpān na pṛthak śūnyatā śunyatāyā na pṛthag rūpaṃ,

yad rūpaṃ sā śūnyatā ya śūnyatā tad rūpaṃ;

evam eva vedanā saṃjñā saṃskāra vijñānaṃ.

iha śāriputra sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā,

anutpannā aniruddhā, amalā avimalā, anūnā aparipūrṇāḥ.

tasmāc chāriputra śūnyatayāṃ

na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam.

na cakṣuḥ-śrotra-ghrāna-jihvā-kāya-manāṃsi.

na rūpa-śabda-gandha-rasa-spraṣṭavaya-dharmāh. Na cakṣūr-dhātur

yāvan na manovijñāna-dhātuḥ.

na-avidyā na-avidyā-kṣayo

yāvan na jarā-maraṇam na jarā-maraṇa-kṣayo.

na duhkha-samudaya-nirodha-margā. Na jñānam, na prāptir na-aprāptiḥ.

tasmāc chāriputra aprāptitvād

bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya

viharatyacittāvaraṇaḥ. cittāvaraṇa-nāstitvād

atrastro viparyāsa-atikrānto niṣṭhā-nirvāṇa-prāptaḥ.

tryadhva-vyavasthitāḥ sarva-buddhāḥ prajñāpāramitām

āśrityā-anuttarāṃ samyaksambodhim abhisambuddhāḥ.

tasmāj jñātavyam:

prajñāpāramitā mahā-mantro mahā-vidyā mantro

"nuttara-mantro" samasama-mantraḥ,

sarva duḥkha praśamanaḥ, satyam amithyatāt.

prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ. tadyathā:

gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā

iti prajñāpāramitā-hṛdayam samāptam.

http://daitangkinhvietnam.com/phat-giao-va-doi-song/127-video-phat-giao/1495-bat-nha-tam-kinh.html

]


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH. QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT
Maha Prajnaparamita hrdaya Sutra. The Bodhisattva Avolokite'svara, while engaged in the practice of profound Prajnaparamita.
NHÃ BA LA MẬT ĐẠ. THỜI CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG ĐỘ NHỨT THIẾT KHỔ
Perceived that the five aggregates are empty of " Self-existence". Thus he overcame all suffering and troubles.
A'CH.
XÁ LỢI TỬ, SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG
" O 'Sariputra, Form is not different from Emptiness, and Emptiness is not different from Form. Form is Emptiness and Emptiness is Form,
TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC DIỆC PHỤC NHƯ THI.
the same can be said of feelings, conceptions, actions, and conciousnesses.
XÁ LỢI TỬ, THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH, BẤT DIỆT, BẤT CẤU, BẤT TỊNH,
O 'Sariputra, the characteristics of the emptiness of all Dharmas are that it is not arising, not ceasing, not defiled, not immaculate,
BẤT TĂNG, BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC,
not increasing, not decreasing. For these reasons, in emptiness there are no Form, no feelings, no conceptions, no actions, no conciousnesses;
VÔ NHÃN, NHĨ, TỸ, THIỆT, THÂN Ý, VÔ SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ, SÚC, PHÁP, VÔ NHÃN
no eyes, ear, tongue, body, or mind; no form, sound, odour, taste, touch or mind-object;
GIỚI, NẢI CHÍ VÔ Ý THƯ'C GIỚI, VÔ VÔ MINH DIỆT, VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHI' VÔ
no eye-elements until we come to no elements of conciousnesses; no ignorance and no extinction of ignorance;
LÃO TỬ, DIỆT VÔ LÃO TỬ TẬN, VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. VÔ TRÍ, DIỆC VÔ ĐẮC.
no old age and death, and no extinction of old age and death, no truth of suffering, no truth of the cause of suffering, of the cessation of sufferings or of the path. There is no knowledge and no attainment whatsoever.
DĨ VÔ HỮU ĐẮC CỐ, BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI
By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajnaparamita has no obstacles in his mind. Because there is no obstacles in his mind,
NGẠI; VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ, VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG CỨU
he has no fear, and going far beyond all perverted vews, all confusions and imaginations, reaches the Ultimate Nirvana.
CÁNH NIẾT BA`N.
TAM THẾ CHƯ PHẬT Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, CỐ ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MIỆU
All the Buddhas of the past, present and future, by relying on the Prajnaparamita, attain the Supreme Enlightenment.
TAM BỒ ĐỆ`.
CỐ TRI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH CHÚ, THỊ VÔ THƯỢNG, THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ, NĂNG TRỪ NHỨT THIẾT KHỔ, CHƠN THIỆT BẤT HƯ.
Therefore, one should know that the Prajnaparamita is the great incantation, the incantation of great wisdom, the excelled incantation, the equal of the unequaled incantation. that is capable of allaying all sufferings, true because devoid of falsehood.
CỐ THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CHÚ, TỨC THUYẾT, CHÚ VIẾT:
This is the incantation proclaimed in the Prajnaparamita; the incantation which is proclaimed as follows:
YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TA'T BÀ HA.
" GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE, BODHI 'SVAHA."

VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ.

Namo Amitabhaya
Tathagataya
tadyatha
Amrito--dbhave
Amrita--siddhambhave
Amrtia--vikrante
Amrtia--vikranta--gamine
gagana kirta--kare
Svaha

NAM MÔ A DI ĐA BÀ GIẠ, ĐA THA GIÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT GIẠ THA, A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, GIÀ DI NỊ, GIÀ GIÀ NA CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
( TỤNG BÀI NÀY 3 LẦN )

ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG , His between-eyebrow hair is soft white ( BA.CH HA`O) a white soft wisp of hair in the center of the brow

Image and video hosting by TinyPic


ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG
Love is full of worry and suffering
KHỔ HẢI VẠN TRÙNG BA
Pain and suffering will become the sea
DỤC THOÁT LUÂN HỒI KHỔ
To get rid of the cycle of birth and death.
TẢO CẤP NIỆM DI ĐÀ
To quickly recite the name of Amitabha Buddha.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT
NAMO AMITABHAYA BUDDHAYA
( phải rán niệm Phật cho nhiều ) Buddha Amitabha Song



SÁM BÀI THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CỦA NGÀI PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT

Image and video hosting by TinyPic

NHỨT GIẢ LỄ KÍNH CHƯ PHẬT
First, Pay homage and respect to all Buddhas.
NHỊ GIẢ XƯNG TÁN NHƯ LAI
Second, Praise the Thus Come Ones.
TAM GIẢ QUẢNG TU CÚNG DƯỜNG
Third, Make abundant offerings.
TỨ GIẢ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG
Fourth, Repent misdeeds and evil karma.
NGŨ GIẢ TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
Fifth, Rejoice at others' merit and virtues.
LỤC GIẢ THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Sixth, Request the Buddhas to turn the Dharma wheel.
THẤT GIẢ THỈNH PHẬT TRỤ THẾ
Seventh, Request the Buddhas to remain in the world.
BÁT GIẢ THƯỜNG TÙY PHẬT HỌC
Eight, Follow the teachings of the Buddhas at all times.
CỬU GIẢ HẰNG THUẬN CHÚNG SANH
Ninth, Accommodate and benefit all living beings.
THẬP GIẢ PHỔ GIAI HỒI HƯỚNG
Tenth, Transfer all merits and virtues universally.

THP ĐI NGUYN VƯƠNG CHỮ HỚN

[ ] 一 者禮敬諸佛。二者稱讚如來。三者廣修供養。四者懺悔業障。五者隨喜功德。六者請轉法輪。七者請佛住世。八者常隨佛學。九者恒順眾生。十者普皆迴向


PHỤC NGUYỆN

TAM BẢO CHỨNG MINH, OAI THẦN HỘ NIỆM, BỒ TÁT, THINH VĂN, PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH, TỨ THIÊN VƯƠNG, CHÚNG THIÊN LONG, BÁT BỘ HỘ PHÁP THẦN VƯƠNG, NHỨT THIẾT THIỆN THẦN, QUANG GIÁNG ĐẠO TRÀNG CHỨNG MINH CÔNG ĐỨC.
PHỤC NGUYỆN, PHONG ĐIỀU VŨ THUẬN, QUỐC THỚI DÂN AN, THIÊN HẠ THÁI BI`NH, CHƯ TAI TIÊU DIÊT.
PHỔ NGUYỆN, HIỆN TIỀN TỨ CHÚNG, PHƯỚC HUỆ SONG TU, MỘT HẬU VÃNG SANH LẠC QUỘ'C.
PHỔ NGUYỆN, ÂM SIÊU DƯƠNG THỚI, HÃI YẾN HÀ THANH, PHÁP GIỚI CHÚNG SANH, TÌNH DỮ VÔ TÌNH TỀ THÀNH PHẬT ĐAO.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

TAM TỰ QUY Y [ ]



TỰ QUY Y PHẬT
To the Buddha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỂ GIẢI ĐẠI ĐẠO
to have a complete understanding of the way,
PHÁT VÔ THƯỢNG TÂM.
Bringing for the state of Ultimate Enlightenment. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y PHÁP
To the Dharma I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THÂM NHẬP KINH TẠNG
to penetrate deeply the Buddhist Canons,
TRÍ HUỆ NHƯ HẢI
the obtained wisdom is great as the ocean. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y TĂNG
To the Sangha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỐNG LÝ ĐẠI CHÚNG
to attain complete spiritual powers and virtues,
NHỨT THIẾT VÔ NGẠI
Without any any force impeding this progress. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
( NHƯ VẬY LÀ ĐÃ XONG PHẦN NGHI THỨC TỤNG KINH. TẠI SAO CHÚNG TÔI LẠI POST PHẦN NGHI THỨC TỤNG NIỆM KINH NẠ`Y. BỞI VÌ CHÚNG TÔI HY VỌNG RẰNG, PHẦN NGHI THỨC TRÌ TỤNG KINH NÀY SẼ GIÚP QUÝ PHẬT TỬ LẬP GIA ĐÌNH NƠI XỨ LẠ QUÊ NGƯỜI, ĐỂ CÓ THỂ NHỚ LẠI KỶ NIỆM THỜI THƠ ẤU ĐÃ TỪNG TỤNG KINH NƠI MỘT NGÔI CHÙA QUÊ HAY NƠI THÀNH THỊ , ĐÃ TỪNG SỐNG TRONG MÁI ẤM GIA ĐÌNH VÀ ĐÀN EM THƠ DẠI, VÀ CÙNG ĐỂ GỢI NHỚ LẠI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, YÊU DÂN TỘC VIỆT NAM HIỀN HÒA NHÂN HẬU)

Tứ Hoằng Thệ Nguyện

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Sentient beings are numberless, I Vow to save them all.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Afflictions are inexhaustible, I Vow to end them all.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Dharma doors are boundless, I Vow to master them all.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Buddhahood is unsurpassable, I Vow to attain it.

Nga`y nay lại đã qua rồi

Universal worthy Bodhisattva' s Verse of Exhortation

Ngày nay lại đã qua rồi
This day is already done.
Mạng căn huyết mạch lần hồi khô khao
Our lives are that much less,
Đời người như cá ở ao
We are like fish in a shrinking pond,
khổ thêm thời có chứ nào vui đâu?
What joy is there in this ?
Great assembly!
Cần tu tợ lửa đốt đầu
We should be diligent and vigorous.
Đừng cho sái buổi như chầu Đê' vương
As if our own heads were at stake.
Tấm thân mỏng mảnh vô thường
Only be mindful of impermanence.
Sớm còn tối mất lo phương cứu mình.
And be careful not to be lax.
http://niemphatthanhphat.blogspot.com
http://nammoadidaphat.blogspot.com/ [ dia chi trang blog moi ]

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT



NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

Nam Mô A Di Đà Phật

ueh vferkHkk; cq~¼k;

VÌ SỰ SANH TỬ

VÌ SỰ SANH TỬ
Because of birth and death,
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Develop the Bodhi Mind;
LẬP TÍN NGUYỆN SÂU
With deep Faith and Vows,
TRÌ DANH HIỆU PHẬT
Recite the Buddha 's name
http://niemphatthanhphat.blogspot.com

BỒ ĐỀ QUYẾN THUỘC 4




NHỨT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG


NHỨT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG
The King of all Dharma is the one word " Amitabha".
HÀ SA THẾ GIỚI HIỆN KHÔN LƯỜNG
The five periods and the eight teachings are all contained within it,
NAY CON NGHE ĐẶNG CHUYÊN TRÌ NIỆM
One who singlemindedly remembers and recites His Name.
NGUYỆN TỎ NHƯ LAI BẤT ĐỘNG THƯỜNG
Will enter into the still and bright and unmoving field.

NHỨT CÚ DI ĐÀ VÔ BIỆT NIỆM
(NIỆM ĐỒNG VÔ NIỆM, SANH TỨC VÔ SANH)
To recite is the same as not to recite, no-birth is precisely birth.
BẤT LAO ĐÀN CHỈ ĐÁO TÂY PHƯƠNG
Not bothering to move even half a step, the body has reached the city of Great Enlightenment.
NHỨT CÚ DI ĐÀ VÔ BIỆT NIỆM
This one word Amitabha, without any other, is sufficient in the snapping of a finger to rebirth to the Western Paradise.
BẤT LAO ĐÀN CHỈ ĐÁO TÂY PHƯƠNG
http://niemphatthanhphat.blogspot.com
http://nammoadidaphat.blogspot.com/ [ dia chi trang blog moi ]

NHẤT TÂM BẤT LOẠN



VÔ THƯỜNG

HÔM QUA RUỖI NGỰA CHẠY RONG
He rode on the road, yesterday
HÔM NAY ANH ĐÃ NẰM TRONG QUAN TÀI
He lies in the coffin, today


NHẤT TÂM BẤT LOẠN

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

Tatra khalu punḥÜ 'Sāriputra buddhaksÜetre sattvaḥÜ praṇÜidānamÜ kartavyamÜ | tat kasmād dhetohÜ? Yatta hi nāma tathārūpaḥÜ satpuruṣaihÜ saha samavadhānamÜ bhavati | nāvaramāttakena Ÿ'Sāriputta ku'salamulena amitāyṣÜas tathāgatasya buddhaksÜetre sattvā upapadyante | yaḥ ka's cic chāriputra kulaputro vā kuladuhitā tasya bhagavato ‘mitā-yṣÜas tathāgatasya nāmadheyamÜ 'SroṣÜyati, 'Srutvā ca manasikarṣÜyati, ekarātraṃ dvirātraṃÜ trirātraṃ caturātraṃÜ pañcarātraṃÜÜaḍrÜātraṃÜ saptarātramÜ vikṣÜiptacitto manasikariṣyati yadā sa kulaputro vā kuladuhitālaṃÜ kariṣyati tasya kālaṃ kurvataḥÜ so ‘mitāyuṣ tathāgataḥÜ 'Srāvaka saṃÜghaparivṛÜto bodhisattvagaṇÜapuraskṛÜtaḥÜ purataḥÜ
sthā
syati | so ‘viparyastacittaḥlamÜ kariṣÜyati ca | sa kālaṃÜ kṛÜtvā tasyaivāmitāyaṣÜas tathāgatasya buddhaksÜetre sukhā;;vatyāmÜ lokadhātāv upapatsyate ! tasmāt tarhi 'sāriputra idam arthava'saṃÜ saṃpa'syamāṇa eva vadāmi satkṛÜtya kulaputrenÜa vā kuladuhitā tatra buddhakṣÜetre cittapranÜidhānam kartavyaṃÜ || 10 ||[1]

r=k [kyq iqu% 'kkfjiq=k cq¼{ks=ks lÙoS% izf.k/kua drZO;e~ A rRdLek¼srks%\ ;=k fg uke rFkk:iS% lg leo/kua Hkofr A ukojek=kds.k 'kkfjiq=k dq'kyewysu vferk;q"kLrFkkxrL; cq¼{ks=ks lÙok mii|Urs A ;% df ÜÓPNkfjiq=k dqyiq=kks ok dqynqfgrk o rL; Hkxorks ¿ ferk;q"kLrFkk&xrL; uke/s;a Jks";fr] JqRok p eufldfj";fr] ,djk=ka ok f}jk=ka ok f=kjk=ka ok prwjk=ka ok i ÜÓjk=ka ok "kM~k=ka ok lIrjk=ka okfof{kIrfpÙkks] eufldfj";fr] ;nk l dqyiq=kksa ok dqynqfgrk ok dkya dfj";fr] rL; dkya dqoZr% lks¿ferk;qLrFkkxr% Jkodla/ifjo`rks cksf/lÙox.kiqjLÑr% ijr% LFkkL;fr A lks¿foi;ZLrfpÙk% dkya fdj";fr p A l dkya ÑRok rL;Sokferk;q"kLrFkkxrL; cq¼{ks=ks lq[kkoR;ka yksd?kkrk oqiiRL;rs A rLekÙkfgZ 'kkfjiq=k bneFkZo'ka lai';eku ,o onfe lRÑR; dqyiq=ks.k ok dqynqfg=kk ok r=k cq¼{ks=ks fpÙkizf.k/kua drZO;e~ AA 10 AA(2)]

"Then again all beings, O 'Sāriputra, ought to make fervent prayer for that Buddha country. And why? Because they come together there with such excellent men. Beings are not born in that Buddha country of the Tathāgata Amitāyus as a reward and result of good works perform in this present life.

No, whatever son or daughter of a good family shall hear the name of blessed Amitāyus. The Tathāgata and having heard it, shall keep it in mind, and with thoughts undisturbed shall keep it in mind for one, two, three, four, five, six or seven nights, when that son or daughter of a family comes to die, then that Amitāyus, the Tathāgata, surrounded by an assembly of disciples and followed by a host of Bodhisattvas, will stand before them at their hour of death, and they will depart this life with tranquil minds. After their death they will been born in the world Sukhāvatī, in the Buddha country of the same Amitāyus, the Tathāgata. Therefore, then, O 'Sāriputra, having perceived this cause and effect, I with reverence say thus. Every son and every daughter of a good family ought with their whole mind to make fervent prayer for that Buddha country.׀׀ 10 ׀׀[1]



[1] F. Max Muller, SBE, Vol. 49, p. 98,99.



[1] Lê Mạnh Thát, Ngữ pháp tiếng Phạn, p. 209.

[2] The Smaller Sukhāvatī-vyūha-Sūtra, Buddhist Sanskrit Texts, Vol. 1 7, ed. by Dr P.L. Vaidya, p. 256.

1/http://niemphatthanhphat.blogspot.com
2/ http://nammoadidaphat.blogspot.com
3/ http://namoamitabhabuddhatheky21.blogspot.com

VÍ NHƯ ĐÈN TRƯỚC GIÓ, AI BIẾT KHI NÀO TẮT?

VÔ THƯỜNG



ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ LUẬT CỦA MỘT LÀNG NÀO,
No village Law, no Law of market town,
CỦA MỘT PHỐ NÀO, CỦA MỘT NHÀ NÀO.
No Law of a single house is this.
ĐÂY LÀ LUẬT DUY NHẤT CỦA THẾ GIỚI VÀ CỦA THẾ GIỚI CHƯ THIÊN.
Of all the world and all the world of Gods,
This only is the Law.
RẰNG: TẤT CẢ MỌI VẬT LÀ VÔ THƯỜNG.
That all things are impermanent.
http://niemphatthanhphat.blogspot.com
HÔM QUA RUỖI NGỰA CHẠY RONG
He rode on the road, yesterday
HÔM NAY ANH ĐÃ NẰM TRONG QUAN TÀI
He lies in the coffin, today

THƠ VU LAN CỦA THÍCH THIỆN HỮU

TÔI NGHE ĐƯỢC THƠ VU LAN CỦA THẦY THIỆN HỮU, NGÀY 06 THÁNG O8 NĂM 2006. ĐƯỢC NGÂM TRÊN ĐÀI RADIO [S B S] AUSTRALIA RẤT HAY.
THÍCH THIỆN MỸ GHI LẠI VÀI HÀNG LƯU NIỆM

Candle in the Wind Elton John
Tribute to Diana Princess of Wales
.

Goodbye, England's rose; may you ever grow in our hearts.
You were the grace that placed itself where lives were torn apart. You called out to our country
and you whispered to those in pain.
Now you belong to heaven and the stars spell out your name.
And it seems to me you lived your life like a candle in the wind,
never fading with the sunset when the rain set in.
And your footsteps will always fall here along England's greenest hills.
Your candle's burned out long before
your legend ever will.

Loveliness we've lost, these empty days without your smile.
This torch we'll always carry for our nation's golden child.
And even though we try,
the truth brings us to tears;
all our words cannot express
the joy you brought us through the years.
And it seems to me you lived your life like a candle in the wind;
never fading with the sunset when the rain set in.
And your footsteps will always fall here along England's greenest hills.
Your candle's burned out long before
your legend ever will.

Goodbye, England's rose; may you ever grow in our hearts.
You were the grace that placed itself where lives were torn apart.
Goodbye, England's rose,
from a country lost without your soul, who'll miss the wings of your compassion
more than you will ever know.
And it seems to me you lived your life like a candle in the wind,
never fading with the sunset when the rain set in.
And your footsteps will always fall here along England's greenest hills.
Your candle's burned out long before
your legend ever will.
Your footsteps will always fall here
along England's greenest hills.
Your candle's burned out long before
your legend ever will.

http://ca.msnusers.com/bilooepr/bilooscorner.msnw?action=get_message&mview=0&ID_Message=2350&LastModified=4675478965010263198


ĐỜI NGƯỜI TRĂM TUỔI CÓ BAO LÂU
CHẲNG SỚM TẰM TU ĐỂ BẠC ĐẦU
RĂNG RỤNG MẮT MỜ TINH KHÍ KÉM
TỘI DẦY PHƯỚC MỎNG NGHIỆP TRẦN SÂU
GẮNG LO BỒI ĐỨC, GIEO NHÂN TỐT
SAU KẾT THÀNH DUYÊN, HƯỞNG QUẢ MẦU.
HƯỚNG THIỆN THUYỀN TỪ MAU TRỞ LA.I
DẦN DÀ CÁI CHẾT BIẾT CHỪNG ĐÂU ?



Nghi Thức: TỤNG KINH A DI ĐÀ

NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI

(Thắp đèn, đốt nhang xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay trước ngực, mật niệm)

TỤNG PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN

Úm Lam Xóa Ha (ba lần)

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN

Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám (ba lần)

(Vị chủ lễ thắp ba cây nhang, quỳ ngay thẳng, cầm nhang ngang trán, niệm bài Cúng Hương)

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành.
Cùng pháp giới chúng sanh,
Phật từ bi gia hộ.
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (ba lần, xá ba xá)

BÀI NGUYỆN CHUÔNG
(Nhịp hai tiếng chuông)

Nguyện tiếng chuông lành thông các cõi,
Thiết vi, địa ngục cũng nghe rành.
Nghe rồi thân tịnh, tâm tròn sáng,
Tất cả chúng sanh Phật đạo thành
(Nhịp một tiếng chuông)

Nghe chuông phiền não tiêu tan,
Bồ đề tâm trí mở toan huệ mầu.
Lìa xa địa ngục thảm sầu,
Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chân tâm.
Nguyện tu thành Phật chẳng lầm,
Độ trong sanh chúng hết lâm tai nàn.

Án, dà ra đế dạ, ta bà ha.
(ba lần, nhịp ba tiếng chuông)

BÀI KỆ KHEN PHẬT

Phật là vua pháp tối cao,
Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
Trời người đồng kính đạo Thầy,
Cha lành hết thảy bốn loài chúng sanh.
Nay con quy mạng thực hành,
Ngưỡng mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời.
Tỏ ra khen ngợi những lời,
Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng.
(Một tiếng chuông)

KỲ NGUYỆN

Nay chư đệ tử chúng đẳng hiệp bổn đạo thập phương Phật tử cung tựu Phật tiền. Kính dâng một nén tâm hương, ba nghiệp tinh cần, cúi đầu đảnh lễ. Nguyện y lời Phật dạy, trì tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, quyết theo Phật pháp làm lành, báo đền công ơn hóa độ. Tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, cùng pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành viên mãn, mau chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ngưỡng mong Phật trí cao vời, từ bi chứng giám.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(ba lạy, ba tiếng chuông)

BÀI KỆ LỄ PHẬT

Sự lạy Phật vốn không, yên tĩnh,
Đạo cảm giao khó tính, khôn bàn.
Nay con thân ở đạo tràng,
Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.
Mười phương Phật hiện bầu linh ảnh,
Có bóng con cùng sánh các ngài.
Từ chân cho chí mặt mày,
Cúi đầu đảnh lễ nguyện rày quy y.

Án, phạ nhật ra học.
(ba lần, xá ba xá)

ĐẢNH LỄ

- Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (một lạy, một tiếng chuông)

- Nam mô Ta Bà giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (một lạy, một tiếng chuông)

- Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ tát.(một lạy, một tiếng chuông)

BÀI KỆ SÁM HỐI

Đệ tử chúng con từ vô thỉ,
Gây bao tội ác bởi lầm mê.
Đắm trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác;
Biển trần khổ lâu đời luân lạc,
Với sinh linh vô số điêu tàn.
Sống u hoài trong kiếp lầm than,
Con lạc lõng không nhìn phương hướng.
Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng.
Xin hướng về núp bóng từ quang,
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên.
Con hôm nay giữ trọn lời nguyền,
Xin sám hối để lòng thanh thoát;
Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt,
Từ bi vô lượng cứu quần sinh.
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình,
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi.
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,
Nương thuyền từ vượt bể ái hà.
Nhớ lời Ngài, bờ giác không xa,
Hành thập thiện cho đời tươi sáng.
Bỏ việc ác, để đời quang đãng,
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân.
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,
Con nguyện được sống đời rộng rãi.
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh.
Để theo Ngài trên bước đường lành,
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ;
Chúng con khổ, nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời.
Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành.
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.

Tội tánh vốn không, do tâm tạo,
Tâm nếu diệt thời tội sạch trong
Tội trong, tâm diệt thảy đều không.
Thế mới thật là chơn sám hối.

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát, Ma Ha Tát
(ba lạy, ba tiếng chuông)

ÐẠI BI CHÚ

Nam Mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (ba lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (ba lần, ba tiếng chuông)

BÀI KỆ TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa.
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Cầu xin chư Phật thương mà chứng minh.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát, Ma Ha Tát (ba lần, ba tiếng chuông)

BÀI KỆ PHÁT NGUYỆN

Lạy đấng Tam giới tôn,
Quy mạng mười phương Phật.
Nay con phát nguyện lớn,
Trì tụng Kinh A Di Đà.
Trên đền bốn ân nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát Bồ đề tâm.
Khi mãn báo thân này,
Sanh qua cõi Cực Lạc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (ba lần)

BÀI KỆ KHAI KINH

Pháp mầu vô thượng rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (ba lần)

BÀI TỤNG KINH A DI ĐÀ

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

Như Lai trước ứng cơ thuyết pháp,
Ta thường nghe lời tạc như vầy:
Một khi pháp hội đông đầy,
Tại thành Xá Vệ, cội cây Kỳ Đà.
Vườn trưởng giả hiệu là Cô Độc,
Tạo giảng đường đủ các nghiêm trang.
Tỳ kheo Tăng số một ngàn,
Hai trăm năm chục rỡ ràng thiền na.
Đều chứng quả đại A La Hán,
Phép thần thông đạo ngạn cao siêu.
Thống tri đại chúng qui điều,
Những bậc thượng tọa ông Kiều Phạm Ba.
Xá Lợi Phất, Nan Đà, Ca Diếp,
Mục Kiền Liên với Kiếp Tân Na.
Câu Hy La, Ly Bà Đa,
Ca Chiên Diên với A Nan, La Hầu.
Bạc Câu Na, Lầu Đà, Châu Lợi,
Tân Đầu Lư lại với Đà Di.
Ấy đại đệ tử thường tùy,
Với Bồ tát lớn ứng kỳ rất đông.
Pháp Vương tử Văn Thù Sư Lợi,
A Dật Đa lại với Càn Đà.
Ông Thường Tinh Tấn Ma Ha,
Với trời Đế Thích cùng là chư thiên.
Chúng hữu duyên Kỳ Viên tất lập,
Đồng tán dương đức Phật vô biên.
Khôn lường đại hội nhân thiên,
Tán hoa lễ bái pháp viên kiền thiền.

Như Lai ứng cơ duyên thuyết pháp,
Muốn mở đàng Cực Lạc độ sanh
Mới bảo Xá Lợi lời rằng:
- Từ đây thẳng đến một đàng Tây phương
Khỏi Phật quốc mười muôn ức cõi,
Có bảo thành tên gọi Lạc Bang.
Di Đà hiện tại phóng quang,
Nay đang nói pháp độ toàn chúng sanh.
Xá Lợi Phất! Sao rằng Cực Lạc,
Trong nước kia những các chúng sanh.
An vui các vật hiện thành,
Không điều khổ não nên rằng Lạc bang.
Này Xá Lợi! Bên đàng Cực Lạc,
Có câu la bảy lớp nghiêm trang.
Bảy trùng la võng huy hoàng,
Bảy hàng bảo thọ như tràng hoa giăng.
Cây vòi vọi trùng trùng chớn chở,
Đường giăng giăng sáng rỡ báu châu.
Khắp vòng trong nước đâu đâu,
Đều là bảy báu sen mầu mà nên.
Cảnh thế ấy an trên Cực Lạc,
Xá Lợi này! Có các bảo trì,
Đều là bảy báu tinh kỳ.
Hiệp thành sáng tỏ, dưới thì kim sa.
Tám công đức nước ra đầy dẫy,
Ao bửu trì trông thấy cát vàng.
Bốn bên giai cấp có đàng,
Trên thì lầu các ngọn vàng nghiêm trang.
Sen đua nở trong ao rực rỡ,
Hoa tinh thần lớn tợ xa luân.
Bốn màu: xanh, đỏ, trắng, vàng,
Màu nào sắc nấy phóng quang ánh trời.
Cảnh trong sạch nơi nơi thơm ngát,
Xá Lợi! Kia Cực Lạc rất xinh.
Bao nhiêu công đức kinh dinh,
Hiệp thành một cảnh quang minh khôn lường.
Phật lại bảo tỏ tường Xá Lợi:
- Nước Phật kia thường nổi nhạc trời.
Vàng ròng làm đất khắp nơi,
Ngày đêm sáu khắc hoa trời nở dưng.
Chúng nước ấy thường chừng khi sáng,
Y kích đem dựng mạn đà hoa.
Trải qua phương khác Phật đà,
Mười muôn ức cõi tán hoa cúng dường.
Trong giây khắc mười phương qua lại,
Phép thần thông vô ngại mấy hồi.
Như đây ăn bữa cơm rồi,
Trải đi khắp đủ đã hồi bổn bang.
Xá Lợi Phật, muôn ngàn công đức,
Bên nước kia đáng bậc nghiêm trang.
Lại rằng Xá Lợi! Lạc bang,
Có chim kỳ diệu trắng, vàng, đỏ, xanh.
Chim Khổng Tước, Ca Lăng, Bạch Hạc,
Anh Võ cùng Cộng Mạng, Tần Già.
Ngày đêm sáu khắc xướng ca,
Dịu dàng đủ tiếng thuần hòa phát âm.
Diễn những pháp Ngũ căn, Ngũ lực,
Thất Bồ đề, Bát Chánh đạo phần.
Diễn ca đạo pháp phân minh,
Người nghe phơi phới thêm sanh căn lành.
Đều niệm Phật, niệm Tăng, niệm Pháp,
Xá Lợi đừng gọi các chim kia.
Thiệt là tội báo sanh về,
Cớ sao nước ấy chẳng hề nghiệp chi?
Xá Lợi Phất! Chẳng gì ác nghiệp,
Huống chi là có thiệt hay sao?
Kìa như các thứ chim nào,
Di Đà biến hóa tuyên rao pháp thiền.
Xá Lợi Phất! Bên miền Cực Lạc,
Có thường thường gió mát dịu dàng.
Phất qua cây ngọc, lưới vàng,
Tiếng khua vi diệu như ngàn nhạc âm.
Nghe tiếng ấy thiện tâm phấn khởi,
Đều một lòng niệm Phật, Pháp, Tăng.
Xá Lợi! Cực Lạc nghiêm trang,
Do công đức ấy hoàn toàn mà nên.
Xá Lợi Phất! Là tên Phật hiệu,
Ý ngươi sao có hiểu được không?
Xá Lợi Phất! Có hào quang,
Chiếu thông thế giới mười phương khôn lường.
Nên chư Phật tán dương công đức,
Hiệu Di Dà vô cực quang minh.
Xá Lợi! Bên cõi Lạc thành,
Phật kia thọ mạng trường sanh khôn lường.
Người trong nước vô phương thọ khảo,
Tính không cùng thọ báo hằng hà.
Nên xưng danh gọi Di Đà,
Tán dương đức Phật hằng sa thọ trường.
Này Xá Lợi! Pháp vương Cực Lạc,
Thành Phật đà mười kiếp những nay.
Lại bảo Xá Lợi lời này:
- Phật kia đệ tử đông vầy hằng sa.
Bực Thanh văn cùng A La Hán,
Tính không cùng Bồ tát hằng sa.
Xá Lợi! Cõi Phật Di Đà,
Nên xong công đức thật là nghiêm trang.
Này Xá Lợi! Lạc bang quốc độ,
Chúng sanh về đạo quả chẳng lui.
Thuở trong các vị cao ngôi,
Nhất sanh bổ xứ số thôi quá nhiều.
Dẫu tính toán bao nhiêu chẳng hết,
Nên số xưng chỉ thuyết vô biên.
Xá Lợi! Chúng sanh hữu duyên,
Nghe đây phát nguyện về miền Lạc bang.
Cớ sao đặng với trang thượng thiện,
Hiệp một phương đồng nguyện, đồng sanh.
Xá Lợi! Há chút căn lành,
Nhân duyên phước đức mà thành đạo sao?
Này Xá Lợi! Những ai nam nữ,
Nghe đặng câu lục tự Di Đà.
Chấp trì danh hiệu niệm ra,
Một ngày những đến năm, ba, bảy ngày.
Chăm một lòng chẳng lìa chánh niệm,
Niệm Di Đà danh hiệu tinh chuyên.
Niệm Phật diệt tội tiền khiên,
Đặng nhiều phước đức nhân duyên căn lành.
Khi lâm mạng an thần, định tánh,
A Di Đà, chúng Thánh hiện tiền.
Lòng không điên đảo chư duyên,
Đặng phần chánh tín về miền Lạc bang.
Xá Lợi Phất! Thấy đàng phước lợi,
Ta ngỏ lời nhắn với chúng sanh.
Người nào nghe đặng Phật danh,
Hiệp nên phát nguyện vãng sanh phước dầy.
Xá Lợi Phất! Nay ta xưng tán,
A Di Đà vô hạn lợi sanh.
Phương Đông cũng có Phật danh,
A Sơ Bệ Phật tán thành Tây phương.
Tu Di Tướng Phật đương khen ngợi,
Đại Tu Di Phật lại phát minh.
Tu Di Quang Phật đồng thanh,
Diệu Âm Phật cũng xưng danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật tán dương.
Xá Lợi! Thế giới Nam phương,
Nhật Nguyệt Đăng Phật mở đường Lạc bang.
Danh Văn Quang Phật đang khen ngợi,
Đại Diệm Kiên Phật lại phát minh.
Tu Di Quang Phật đồng thinh,
Vô Lượng Tinh Tấn xưng danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật tán dương.
Xá Lợi! Thế giới Tây Phương,
Vô Lượng Thọ Phật mở đường Lạc bang.
Vô Lượng Tướng Phật đang khen ngợi,
Vô Lượng Tràng Phật lại đồng thinh.
Đại Quang với Phật Đại Minh,
Tịnh Quang Hữu Tướng xưng danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật tán dương.
Xá Lợi! Thế giới Bắc phương,
Có Diệm Kiên Phật mở đường Lạc bang.
Tối Thắng Âm Phật đang khen ngợi,
Nan Thơ Phật hòa lại phát minh.
Nhật Sanh Phật lại đồng thinh,
Dõng Minh Phật lại xưng danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật tán dương.
Xá Lợi! Thế giới Hạ phương,
Có Sư Tử Phật mở đường Lạc bang.
Danh Văn Phật nay đang khen ngợi,
Danh Quang Phật hòa lại phát minh.
Đạt Ma Phật Pháp đồng thinh,
Trì Pháp Phật cũng xưng danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật tán dương.
Xá Lợi! Thế giới Thượng phương,
Có Phạm Âm Phật mở đường Lạc bang.
Tứ Vương Phật, Hương Quang, Hương Thượng,
Đại Diệm Kiên đồng xướng Di Đà.
Có Phật Tạp Sắc Bảo Hoa,
Ta La Thọ Phật cũng là xưng vương.
Bảo Hoa Đức Phật đương khen ngợi,
Nhất Thiết Nghĩa Phật lại phát minh.
Tu Di Sơn Phật đồng thinh,
Mở lời dạy bảo niệm danh Di Đà.
Dường ấy thảy hằng sa chư Phật,
Tướng lưỡi ra bủa khắp Tam thiên.
Nói lời chắc thật bảo khuyên,
Chúng sanh ngươi hãy tín thành phát tâm.
A Di Đà thậm thâm công đức,
Nên kinh này chư Phật hộ trì.
Xá Lợi! Người ý xét suy,
Chư Phật hộ niệm kinh này cớ sao?
Này Xá Lợi! Người nào nam nữ,
Nghe kinh này tín sự phụng hành.
Với nghe chư Phật kim danh,
Đặng phần hộ niệm đạo thành chẳng lui.
Nên Xá Lợi! Các ngươi tín thọ,
Lời ta nay nói đó phụng hành.
Với lời chư Phật tán thành,
Phát lòng chánh tín nguyện sanh Lạc thành.
Xá Lợi Phất! Căn lành do đó,
Hoặc những người đã có nguyện rồi.
Người đã phát nguyện đương đời,
Người mới tín thọ hội này nguyện ra.
Muốn về nước Di Đà Phật ấy,
Các ngươi đều đặng vậy chẳng lui.
Nhất thừa thọ ký đặng rồi,
Vô thượng chánh giác ấy ngôi hầu gần.
Vô phát nguyện tin thần xu hướng,
Trong nước kia người được về rồi.
Hoặc người về đã tới nơi,
Người mới dời bước đương thời hiện nay.
Này Xá Lợi! Các người nam nữ,
Như có ai tin thử lời ta.
Tín thành nguyện ấy phát ra,
Đặng về Cực Lạc nước A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Như ta nay ấy,
Khen ngợi công đức mấy Phật đà.
Chư Phật cũng lại khen ta,
Lời xưng công đức Thích Ca khôn lường.
Hay làm việc khó làm ít có,
Cõi Ta Bà chẳng bỏ chúng sanh.
Năm trước đời dữ hoành hành,
Kiếp đời quá trược, chúng sanh nghiệp nhiều.
Trước mắt thấy những điều trược uế,
Trong mình người trược kể biết bao.
Các trước phiền não xen vào,
Ấy là năm trược trần lao Ta Bà.
Trong nước ấy tu đà thành Phật,
Vì chúng sanh thuyết giáo mỗi nơi.
Bủa lòng bác ái khắp trời,
Nói ra những pháp trong đời đáng tin.
Xá Lợi Phất! Ngươi nay hiểu biết,
Ta ở đời trước dữ thế gian.
Hay làm những việc khó làm,
Đặng đạo vô thượng mở đàng chúng sanh.
Nói những pháp nan hành, nan tín,
Dắt chúng sanh về cõi Niết Bàn.
Ấy là việc khó làm nên,
Viên dung một trí ở trên ba ngàn.

Phật mới nói kinh hoàn pháp mãn,
Xá Lợi cùng Bồ Tát, Phạm Thiên.
Tỳ Kheo, La Hán vô biên,
Đại hội Tam giới, nhân thiên hằng hà.
Nghe Phật nói Di Đà công đức,
Lòng vui mừng khấp khởi phụng hành.
Xưng dương lễ tạ kiền thiền,
Các thành bổn độ hóa thành hội châu.

BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ LA NI

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ la ca lệ ta bà ha. (ba lần, ba tiếng chuông)

NIỆM DANH HIỆU PHẬT VÀ BỒ TÁT

Nam Mô A Di Đà Phật (108 ba lần)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (ba lần)
Nam mô Đại Lực DạiThế Chí Bồ Tát (ba lần)
Nam Mô Thạnh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (ba lần)

(ba tiếng chuông, lạy ba lạy)
LẠY HỒNG DANH

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Vô Lượng Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Vô Biên Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Vô Ngại Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Vô Đối Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Diệm Vương Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Thanh Tịnh Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Hoan Hỷ Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Trí Huệ Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Nan Tư Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Bất Đoạn Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Vô Xưng Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)
Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc giới, Di Đà Hải Hội Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai (một tiếng chuông, một lạy)

MƯỜI HẠNH NGUYỆN BỒ TÁT PHỔ HIỀN

Một, là lạy Phật Thế Tôn,
Hiện thân trước Phật một lòng kính tin.
Hai, khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương hoa,
Tràng phan, bảo cái dâng ra cúng dường.
Bốn, vì mê chấp lầm đường,
Tham, sân nghiệp chướng con thường sám luôn.
Năm, suy công đức vàn muôn,
Của phàm, của thánh con đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh cũng vừa truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư.
Tám, thường tu học đại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Chín thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp luân.
Mười, đem tất cả công huân,
Mọi loài đều hưởng, khắp trần đều vui.
Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc, nguyền ngồi tòa sen.

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Ma Ha Tát (ba lần, một lạy, ba tiếng chuông)
BÁT NHÃ TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba la mật đa, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành thức diệc phục như thị.

Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh , diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố; vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba la mật đa cố, đắc A Nậu Ða La Tam miệu Tam Bồ đề.

Cố tri Bát Nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thật bất hư.

Cố thuyết Bát Nhã Ba la mật đa, tức thuyết chú viết:

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. (ba lần, ba tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức tuyệt vời,
Xin đem hồi hướng kháp người gần xa.
Chúng sanh pháp giới Ta bà,
Mau về cõi Phật Di Đà Tây thiên.

Nguyện tiêu tam chướng trừ não phiền,
Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời.
Nguyện bao nghiệp tội xa rời,
Nguyện hành Bồ Tát đời đời độ tha.

Nguyện về Tịnh Độ nước nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa khai ngộ pháp vô sanh,
Bất thối Bồ tát bạn lành dựa nương.
TỰ QUY Y

Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh.
Thể theo đạo cả,
Phát lòng vô thượng.
(một lạy)

Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh.
Thấu rõ kinh tạng,
Trí huệ như biển.
(một lạy)

Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh.
Thống lý đại chúng,
Hết thảy không ngại.
(một lạy)
HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
(ba lạy, ba tiếng chuông)